bài đọc lễ cầu cho các linh hồn

- Các tổ sinh hoạt dới điều khiển tổ trởng Các thành viên tổ lần lợt Tiết : SINH HOẠT TẬP THỂ SINH HOẠT LỚP TUẦN 26 I Mơc ti£u:: Gióp HS: - Sinh hoạt lớp đánh giá nhận xét hoạt động tuần 26 - Phổ biến kế hoạch tuần 27 II CC HOT NG DY - HC: Hoạt động Thánh Ca Lễ Cầu Hồn | Những Bài Hát Thánh Ca Hay Nhất Dành Cho Lễ Cầu HồnThánh ca các đẳng linh hồnĐăng ký nhạc Thánh Ca: https Lời Giới Thiệu và ý chỉ cầu nguyện cho các Linh Hồn: Mở Đầu Và Bài Thánh Ca Cầu Hồn. Làm Dấu Thánh Giá, Đọc Kinh Đức Chúa Thánh Thần. Lời Nguyện Khai Mạc: Lạy Chúa, là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu. Chúng con phó thác các linh hồn, mà Chúa đã gọi ra Chúng ta cầu nguyện xin Chúa là nguồn hạnh phúc ban nước Thiên đàng cho các linh hồn ấy. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các gia đình có người thân chết vì Covid, họ đau đớn buồn sầu vì không được chăm sóc, không được lo tang lễ cho chu đáo cho người thân. kinh lẠy cha phẠt tẠ cẦu cho cÁc ĐẲng linh hỒn; cẦu nguyỆn khi thĂm viẾng nghĨa trang hay ĐỌc kinh giỖ; tuần 7 ngày cầu cho các linh hồn dưới luyện ngục; bÀi ĐỌc, phÚc Âm, lỜi nguyỆn cho tang lỄ, lỄ giỖ . phÒng cẦu nguyỆn cho cÁc bÀ mẸ vÀ thai nhi model rambut untuk wajah persegi hidung pesek. I. LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU? Giuse Phan Tấn Thành, OP Phụng vụ dành ngày 2 tháng 11 để kính các linh hồn. Nguồn gốc lễ này bắt đầu từ đâu? Nó có giống với lễ Vu lan trong Phật giáo không? Như đã biết, lễ Vu lan được cử hành vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là Tết Trung nguyên. Có lẽ lễ này không bắt nguồn từ Phật giáo, nhưng từ phong tục dân gian. Dù sao, trọng tâm của niềm tin ngày rằm tháng bảy âm lịch là “xá tội vong nhân” vào ngày này, các tội nhân dưới âm phủ được giải thoát. Thân nhân những người mới qua đời tổ chức lễ cầu siêu. Nguồn gốc của lễ các linh hồn bên Công giáo thì khác, với nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Ta có thể lấy một mốc điểm lịch sử là ngày 2 tháng 11 năm 998, để từ đó theo dõi sự tiến triển khi đi ngược hay đi xuôi. Tại sao lấy ngày 2 tháng 11 năm 998 làm mốc điểm? Tại vì theo lịch sử, thánh Ôđilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny dòng Biển đức đã ấn định dành ngày 2 tháng 11 nghĩa là ngày hôm sau lễ kính các thánh để cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, qua việc dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm việc bác ái. Tại sao chọn ngày 2 tháng 11? Như vừa nói, cha Ôđilon chọn ngày 2 tháng 11 bởi vì liền kế ngày 1 tháng 11. Vào ngày này, phụng vụ mừng lễ kính tất cả các thánh, nghĩa là các tín hữu đã lìa đời và đang được hưởng hạnh phúc ở bên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng bên cạnh các phúc nhân, còn có những tín hữu khác đang trải qua cuộc thanh luyện. Vì thế, chúng ta cũng hãy nhớ cầu nguyện cho họ. Đây là một tư tưởng do cha Ôđilon gợi ra phải không? Chúng ta cần phân biệt nhiều khía cạnh việc dành ngày 2 tháng 11 để cầu cho tất cả những người qua đời là sáng kiến của cha Ôđilon. Nhưng việc cầu nguyện cho những người đã qua đời thì đã có từ lâu rồi, mãi từ cuối thời Cựu ước, như chúng ta đọc thấy chứng tích trong sách Macabê, quyển hai, chương 12, khi ông Macabê quyên tiền gửi về đền thờ Giêrusalem để cầu nguyện cho các tử sĩ. Trong Tân ước, ta cũng thấy thánh Phaolô khuyên ông Timôthêô hãy cầu nguyện cho Onêsiphorô, một cộng tác viên với thánh Tông đồ tại Êphêsô 2Tm 1,16-18. Dĩ nhiên, tập tục này được duy trì trong suốt lịch sử của Hội thánh. Còn việc dành một ngày trong năm phụng vụ để cầu cho tất cả các linh hồn thì cũng đã có trước cha Ôđilon từ ba thế kỷ. Tại sao phải cầu nguyện cho những người qua đời? Việc tưởng nhớ những người qua đời được gặp thấy nơi nhiều dân tộc, với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có khi việc tưởng nhớ người quá cố là dịp để thân quyến gặp gỡ nhau, để ôn lại công đức tiền nhân, bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ, đồng thời khuyến khích nâng đỡ nhau trên đường đời. Có nơi thì tin rằng hương hồn của tổ tiên vẫn còn hiện diện với con cháu, vì thế họ được mời đến tham dự những biến cố quan trọng của gia đình, cũng giống như lúc sinh tiền. Có nơi tổ chức cúng giỗ để cung cấp lương thực và đồ dùng cho người quá cố, bởi vì người ta tin rằng những người bên kia thế giới cũng có nhưng nhu cầu và sinh hoạt giống như ở đời này. Có nơi thì tổ chức lễ cầu siêu, xin cho các linh hồn còn bị giam ở địa ngục được giải thoát. Dĩ nhiên, không phải tất cả các quan niệm này đều phù hợp với đức tin Kitô giáo. Thế thì các Kitô hữu cầu nguyện cho các người qua đời để làm gì? Trong việc cầu nguyện cho những người qua đời, có khá nhiều động lực khác nhau. Trước hết, chúng ta không thể nào bỏ qua khía cạnh tâm lý những buổi cầu nguyện bên cạnh quan tài người chết hoặc vào dịp giỗ giáp tháng giáp năm nhằm bày tỏ sự thương tiếc người đã qua đi. Thế nhưng bên cạnh động lực tâm lý, dần dần đức tin Kitô giáo đã mang đến nhiều động lực mới. Ngay từ những lá thư đầu tiên tựa như thứ thứ nhất gửi các tín hữu Têxalônica, chương 4, câu 13, thánh Phaolô đã nhắc nhở các tín hữu đừng buồn rầu như những kẻ thiếu niềm hy vọng. Thực vậy, đối với người tín hữu, cái chết không phải là sự tận diệt của cuộc sống, mà chỉ là ngưỡng cửa bước sang cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, các tín hữu tiên khởi gọi ngày qua đời là “sinh nhật” dies natalis, bởi vì họ được sinh vào cuộc sống mới. Điều này được áp dụng đặc biệt cho những vị tử đạo. Không lạ gì mà vào ngày giáp năm ngày tử đạo, các tín hữu họp nhau lại để đọc hạnh tích của vị tử đạo, không những để khuyến khích nhau bắt chước tấm gương can đảm, nhưng nhất là để tạ ơn Chúa vì đã cho một tín hữu được hoà đồng với Đức Kitô. Nói cách khác, việc mừng các vị tử đạo được liên kết với Thánh lễ, tức là lễ hy sinh của Đức Kitô. Các vị tử đạo là những người đã đi theo sát với Thay mình trên đường thập giá, cho nên chắc chắn họ cũng được thông dự vào sự phục sinh với Người. Nhưng mà đâu phải tất cả các tín hữu đều tử vì đạo? Đúng rồi. Khi kính nhớ các vị tử đạo, các tín hữu xác tín rằng các ngài đang được hưởng vinh quang với Chúa rồi. Đó là buổi cử hành vui tươi. Thế nhưng không phải tất cả các tín hữu đều chết vì đạo. Nói cách khác, không phải tất cả các tín hữu sau khi qua đời đều nắm chắc sẽ được hưởng vinh quang với Chúa. Vì thế, những người qua đời cần được Hội thánh cầu nguyện để được thanh luyện khỏi tội lỗi, như chúng ta thấy phản ánh nơi đoạn văn trích từ sách Macabê quyển 2 chương 12 đã nhắc đến trên đây. Chúng ta chỉ cần trưng dẫn một chứng tích thì đủ rõ. Trong sách Tuyên xưng Confessiones hay Tự thuật, thánh Augustinô kể lại lời trối trăn của thân mẫu Monica rằng “Các con có thể chôn xác mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con một điều là dù các con ở đâu, thì hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Câu nói này phản ánh một tập tục đã có từ lâu đời, đó là cầu nguyện cho các người qua đời trong khi dâng Thánh lễ. Thánh lễ là nơi mà các tín hữu sống cao độ tín điều về sự “thông hiệp các thánh”. Thực vậy, không những các tín hữu thông hiệp vào Mình và Máu của Chúa Kitô, nhưng còn thông hiệp với Nhiệm thể của Chúa là Hội thánh. Các Kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc đến sự thông hiệp với Đức Maria, các thánh, các phúc nhân, và tất cả những ai đã ly trần. Sự tưởng nhớ này không những chỉ tuyên xưng rằng các người qua đời vẫn còn sống chứ không bị hủy diệt ra tro bụi, nhưng con cầu xin Chúa nhân lành thương xóa bỏ những thiếu sót của họ. Dĩ nhiên, không phải chỉ chúng ta những người còn sống chuyển cầu cho các người qua đời, nhưng là cả Hội thánh nghĩa là kể cả Đức Kitô, Đức Maria và các phúc nhân đều liên đới chuyển cầu cho các linh hồn. Ngoài việc cử hành Thánh lễ, Hội thánh cũng cầu nguyện cho các người qua đời bằng những kinh nguyện khác, cũng như bằng các công tác bác ái. Việc cầu nguyện cho người qua đời đã có từ Cựu ước, còn việc dành một ngày để cầu cho tất cả những người qua đời thì mới chỉ thành hình từ thế kỷ VII. Lai lịch tục lệ này như thế nào? Trên đây, chúng ta nhắc đến lễ Trung nguyên, một ngày mà tục lệ dân gian ở Á đông cầu siêu cho các vong nhân. Ở Rôma thời cổ, cũng có một ngày cầu siêu như vậy, vào ngày 22 tháng hai dương lịch nghĩa là vào ngày cuối năm theo lịch cổ Rôma. Không lạ gì mà nhiều nơi trong Giáo hội công giáo cũng muốn dành ra một ngày để cầu nguyện cho tất cả các người qua đời. Chứng tích cổ nhất là bản luật các đan sĩ của thánh Isiđorô Sevilla bên Tây ban nha +636, truyền dâng Thánh lễ cho tất cả các người qua đời vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vào các thế kỷ sau đó, người ta thấy tại nhiều đan viện tại Đức, Pháp, Ý, chỉ định một ngày trong năm để cầu cho hết các linh hồn, tuy không trùng ngày như nhau. Với cha Ôđilon, thì ngày này được ấn định sau lễ kính các thánh. Nhờ uy tín của các đan viện Cluny, tục lệ này sớm lan tràn khắp châu Âu từ thế kỷ XI. Tục lệ mỗi linh mục dâng ba thánh lễ nhân ngày kính các linh hồn cũng bắt đầu từ thánh Ođilôn, phải không? Không phải, tập tục này ra đời muộn hơn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV với các cha dòng Đaminh ở Valencia Tây ban nha. Đức thánh cha Bênêđictô XIV năm 1748 châu phê tập tục này và nới rộng cho tất cả các linh mục bên Tây ban nha, Bồ đào nha, châu Mỹ la-tinh. Mãi đến năm 1915, đức thánh cha Bênêđictô XV mới nới rộng ra toàn thể Hội thánh. Dù sao, nên biết là Hội thánh không chỉ dành mỗi năm một ngày để tưởng nhớ các người đã qua đời. Nhiều tu viện và giáo xứ vẫn có thói quen cầu nguyện cho các linh hồn mỗi ngày, hay ít là mỗi tuần vào ngày thứ hai. Tại sao dành ngày thứ hai để cầu nguyện cho các linh hồn? Nguồn gốc tục lệ này là một quan điểm hơi kỳ quặc vào thời Trung cổ. Người ta cho rằng các linh hồn ở luyện ngục được xả hơi vào Chúa nhật để mừng Chúa Phục sinh, và qua ngày thứ hai, lại phải tiếp tục lao động. Vì thế, chúng ta nên giúp cho họ một tay. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn vào bất cứ ngày nào mà không cần đếm xỉa đến tập tục đó. ————————– II. CÓ NGHI THỨC PHỤNG VỤ CHO VIỆC HỎA TÁNG KHÔNG? Tháng 11 dương lịch được dành để kính nhớ các người qua đời. Bên cạnh việc đọc kinh cầu nguyện cho họ, các tín hữu còn đi thăm viếng nghĩa trang. Thế nhưng trong những năm gần đây, tục lệ đó đã giảm bớt, không phải chỉ vì người ta quá bận bịu với công ăn việc làm đến nỗi không còn thời giờ tưởng niệm người chết, nhưng còn vì tại vài quốc gia, người ta muốn dẹp bỏ các nghĩa trang. Thi hài người chết bị hỏa thiêu ra tro, chứ không còn được chôn cất nữa. Theo họ, biện pháp này giải quyết vấn đề khan hiếm đất đai thành phố cũng như vấn đề ô nhiễm môi sinh. Thái độ của Giáo hội đối với vấn đề hỏa táng như thế nào? Có nghi thức phụng vụ nào dành cho việc hỏa táng không? Trong lịch sử nhân loaị, tục lệ hỏa táng không phải là điều mới lạ. Thậm chí, đôi khi nó gắn liền với một nền văn hóa hay với một tôn giáo nữa. Chúng ta có thể lấy nước Ấn độ làm thí dụ, nơi mà tục lệ hỏa táng đã có từ lâu đời, tuy rằng khó nói rằng việc hỏa táng có nhất thiết gắn liền với thuyết luân hồi hay không. Thế nhưng, khi bước sang truyền thống của người Do thái, thì chúng ta thấy ngược lại. Từ những tác phẩm cổ điển của Kinh thánh, chúng ta đã thấy họ chôn cất người chết chứ không hỏa thiêu, tuy dù vào thời cổ, người Do thái chưa có quan niệm rõ rệt về số phận con người bên kia thế giới. Vào cổ thời, người Do thái tin rằng sau khi chết, con người dù tốt dù xấu đều phải xuống dưới cõi âm ti, với cuộc sống thoi thóp, không biết có đáng gọi là sống hay không nữa. Dù sao, vào thời của đức Kitô, tục lệ chôn cất người chết đã thành phổ thông ở Palestina. Theo Phúc âm, chúng ta được biết rằng sau khi đã Ngài đã chết, thì các môn đệ đã hạ xác Ngài khỏi thập giá và mai táng trong huyệt đá; nhưng vào ngày thứ ba, khi ra thăm viếng mộ thì các môn đệ thấy nó đã trống rỗng, bởi vì Ngài đã sống lại. Sau đó, các Kitô hữu, dù là gốc Do thái hay gốc từ các dân tộc khác, đã duy trì việc mai táng người chết, một đàng có lẽ vì muốn bắt chước việc táng xác Thầy của mình, và đàng khác cũng muốn biểu lộ niềm tin vào việc thân xác sống lại theo lời Chúa hứa. Tuy nhiên, việc an táng người chết có thực sự gắn liền với lòng tin Kitô giáo, hay chỉ là một tục lệ văn hóa của một vài dân tộc hay vài thời đại? Như đã nói trên đây, người Kitô hữu không có bày ra việc an táng người chết, nhưng họ đã lấy lại tục lệ của người Do thái. Đến khi bước sang vùng văn hóa Hy-lạp La mã, thì chúng ta cũng thấy người dân tại đây chôn cất người chết chứ không có hỏa táng như là bên Ấn độ. Nói như thế không có nghĩa là các Kitô hữu chấp nhận một thói tục thường tình. Lắm lúc họ đã phải phấn đấu để duy trì một điều mà họ cho là có liên hệ tới niềm tin. Vấn đề này được đặt ra trong trong thời kỳ các Kitô hữu bị bách hại trong Đế quốc Rôma. Một số tín hữu đã bị kết án tử hình vì đã không tuân hành luật lệ của Hoàng đế. Chiếu theo hình luật, các tử tội không được an táng, nhưng thây của họ phải bị phơi giữa trời trong vòng 6 ngày rồi sau đó bị đốt ra tro. Các tín hữu đã tìm hết cách, không để cho thi hài các vị tử đạo phải chịu cảnh đó. Có khi thì họ lén lút lấy trộm xác vào ban đêm để về mai táng; có khi thì họ đút lót cho binh sĩ để chuộc xác về. Dĩ nhiên, có người sẽ nói rằng đó là do lòng nhiệt thành tôn kính các vị tử đạo. Dù vậy, phải nhận rằng còn có động lực khác nữa khiến cho các Kitô hữu không muốn thấy thi hài bị thiêu đốt. Đó cũng là lý do vì sao các Kitô hữu tại Rôma cũng như tại các nơi khác đã tậu đất để lập nghĩa trang riêng. Nên biết là trong tiếng La-tinh “nghĩa trang” được gọi là “coemeterium”, gốc bởi tiếng Hy-lạp “coimeterion” nơi an nghỉ, chờ ngày phục sinh. Các tín hữu năng lui tới các nghĩa trang này, được coi là “đất thánh”, không những là để tưởng nhớ người chết mà còn để cầu nguyện, cử hành phụng vụ, và biểu dương niềm tin và hy vọng phục sinh nữa. Như vậy, tục lệ an táng người chết không còn phải là một vấn đề văn hóa mà thôi, nhưng còn gắn liền với niềm tin Kitô giáo, phải không? Có lẽ trong quá khứ ít khi có người đặt ra câu hỏi đó. Tưởng cũng nên biết là tuy quan niệm về số phận con người sau khi chết có khác nhau, nhưng tục lệ chôn cất người chết coi như là phổ thông trong những miền mà Phúc âm được rao giảng trong các thế kỷ đầu tiên. Nghĩ tới các kim tự tháp bên Ai cập thì đủ rõ các kim tự tháp chẳng qua chỉ là các lăng tẩm của các vua Pharaô đó thôi. Nói được là trong suốt thời Trung cổ tại Âu châu, không ai đòi xét lại vấn đề chôn cất người chết cả. Mặt khác, phụng vụ đã có nghi thức không những là để cầu cho người quá cố, mà còn có lễ nghi an táng, bắt đầu từ khi tẩn liệm nhập quan, kế đo đưa quan tài vào nhà thờ cử hành thánh lễ cầu hồn, và sau cùng là nghi thức tạm biệt, khi mà cộng đoàn tháp tùng quan tài ra nghĩa trang, đến nơi an nghỉ. Từ khi nào có người đòi xét lại vân đề an táng người chết, và thay thế bằng việc hỏa thiêu? Thực ra thì vào thời Trung cổ, đôi khi người ta cũng thi hành việc hỏa thiêu, chẳng hạn như khi xảy ra một vụ dịch tễ; nhưng đó chỉ là ngoại lệ. Việc xét lại xảy ra không phải từ khi Phúc âm được truyền bá sang nền văn hóa quen thuộc với tục hỏa táng tỉ như tại Ấn độ, nhưng là tại Âu châu, và cách riêng là tại Pháp. Do ảnh hưởng của các nhóm Tam điểm, nhiều phong trào đã được thành lập để cổ động cho viec hỏa táng. Một kết quả cụ thể là quốc hội Pháp biểu quyết đạo luật ngày 15/11/1887 cho phép các công dân đuọc tự do lựa chọn giữa việc mai táng hay hỏa thiêu. Và hai năm sau đó, khi đạo luật có giá trị chấp hành, một lò hỏa thiêu đã được khai trương tại nghĩa trang thành phố Paris. Phản ứng của Giáo hội đối với việc hỏa táng thế nào? Vào cuối thế kỷ XIX, Bộ Thánh vụ nay gọi là Bộ Giáo lý đức tin đã ra nhiều nghị định liên quan tơi việc hỏa táng. Một nghị định ngày 19/5/1886 cấm các tín hữu không được gia nhập những tổ chức phổ biến việc hỏa táng. Vài tháng sau, ngày 15/12/1886, một nghị định khác phạt người nào tự nguyện chấp nhận hỏa táng thân xác của mình sẽ không được an táng theo lễ nghi tôn giáo. Ngày 27/7/1892, một nghị định nữa thêm vài chi tiết ngăn cấm việc hỏa táng nới rộng ra cả người làm cố vấn kỹ thuật cho việc hỏa táng. Sở dĩ Bộ Thánh vụ đã có những biện pháp khắt khe như vậy là vì vào thời đó, các chiến dịch cổ động việc hỏa thiêu là do phong trào Tam điểm điều khiển, và phong trào này có nhiều điều chống lại Giáo hội công giáo. Họ cho rằng việc an táng ngươi chết là điều hủ lậu, bởi vì dựa trên lòng mê tín về việc con người có linh hồn bất tử. Mặt khác, tuy rằng sự hỏa thiêu tự nó không có gì trái ngược với đúc tin Kitô giáo, nhưng tâm thức của người thời đó vẫn coi chuyện hỏa thiêu như cái gì kinh tởm, tàn bạo. Vả lại, khi hỏa thiêu thì đâu có thể thi hành nghi thức an táng cổ truyền được nữa. Những quy luật chống lại việc hỏa thiêu ngày nay có còn giá trị nữa không? Cần nhắc lại là những nghị định trên đây đã được ban hành hối cuối thế kỷ XIX, trước khi có Bộ giáo luật. Trong bộ giáo luật ra đời năm 1917, kỷ luật ngăn cấm vẫn còn được duy trì ở Thêm vào đó, ai tình nguyện để cho xác mình hỏa táng sẽ bị phạt không được an táng theo nghi thức tôn giáo. Mãi tới ngày 8/5/1963 mới có sự chuyển hướng trong kỷ luật của Giáo hội. Xét rằng nhiều người đã chọn việc hỏa táng không phải vì lý do bài trừ tôn giáo, cho nên Bộ Thánh vụ đã ra một nghị định mới nói như sau “Cần phải cố gắng duy trì tục lệ an táng người chết. Những điều ngăn cấm việc hỏa táng được bãi bỏ, trừ khi nào đã rõ là đương sự đã chọn lựa hỏa táng vì chối bỏ các tín điều công giáo, hay vì lòng thù ghét khích bác Giáo hội. Để khỏi làm suy giảm sự gắn bó của các Kitô hữu đối với việc an táng, những nghi thức dành cho việc an táng và các kinh nguyện kế tiếp sẽ không bao giơ được cử hành tại nơi hỏa táng. Và cũng sẽ không tháp tùng thi hài ra đến nơi hỏa táng.” Nói như vậy là không có một nghi thức nào dành cho những người hỏa táng hay sao? Tôi vừa mới nói đến nghị định của Bộ Thánh vụ ra năm 1963, nghĩa là trước khi bế mạc công đồng Vaticanô II. Sau công đồng, chúng ta thấy có một cuộc cải tổ về kỷ luật cũng như về phụng vụ. Trong lãnh vực mà chúng ta đang bàn, thì việc cải tổ phụng vụ tiến hành sớm hơn, với sự xuất bản nghi thức an táng Ordo exsequiarum vào năm 1969. Nghi thức cho phép cử hành lễ nghi an táng cho những ngưởi tín hữu nào đã chọn việc hỏa táng không phải vì những lý do trái nghịch với Kitô giáo. Và nhưng nghi thức được cử hành tại nhà nguyện nghĩa trang hay tại huyệt thì có thể được cử hành tại nơi hỏa thiêu, hay tại lò hỏa thiêu Dẫn nhập, Praenotanda, số 15. Như vậy là ta thấy có sự thay đổi, so với nghị định của Bộ Thánh vụ năm 1963. Còn việc cải tổ kỷ luật, thì như chị đã biết, được hình thành với việc ban hành bộ giáo luật năm 1983. khoản 3, nói như sau “Giáo hội thiết tha khuyên nhủ nên duy trì phong tục đạo đức chôn cất thi hài người quá cố. Tuy nhiên, Giáo hội không cấm hỏa táng, trừ khi nào sự hỏa táng được chọn lựa vì những lý do trái ngược với đạo lý Kitô giáo”. Như vậy, không có chi mới lạ. Nói tóm lại, thì có thể cử hành lễ nghi an táng cho người hỏa thiêu, phải không? Cứ dựa theo các bản văn thì phải trả lời là có thể cử hành các lễ nghi. Thế nhưng khi đi vào thực tế thì người ta mới thấy nó rắc rối. Phải hiểu thế nào là nghi thức an táng dành cho người hỏa thiêu? Có nghĩa là mang thi hài đến nhà thờ cử hành thánh lễ an táng trước khi đem hỏa táng ư? Chuyện này chẳng có gì khó khăn cả. Có nghĩa là làm phép xác tại nghĩa trang trước khi hỏa thiêu, tương tự như trước khi chôn xuống lòng đất ư? Vấn đề trở nên phức tạp hơn, bởi vì phải thay đổi nhiều lời kinh. Chưa hết, lại còn có chuyện thi hài được hỏa táng liền sau khi chết; thế thì có được đem hủ tro vào nhà thờ cử hành thánh lễ giống như là đối với thi hài hay không? Trong một bài báo đăng trong tạp chí “Notitiae” năm 1977 trang 45, bộ Phụng tự đã trả lời là không, bởi vì thiếu trung thực với cử chỉ. Trong nghi thức an táng với sự hiện diện của thân xác, Giáo hội bày tỏ lòng tôn kính đối với thân xác, đã được thánh hóa nhờ bí tích rửa tội, và trở nên đền thờ của Thánh Thần. Đám tro tàn không còn bộc lộ được dấu hiệu đó nữa, vì thế cho nên không thể dành cho đám tro những nghi thức dành cho thân xác, tựa như xông hương. Dĩ nhiên, việc dâng Thánh lễ cầu nguyện cho những người qua đời là chuyện khác, cho dù có thi hài hay không. Nhưng phần nào những câu hỏi vừa rồi còn nằm trong phần nguyên tắc. Khi đi vào thực tế, các mục tử còn thấy nhiều khó khăn khác nữa. Thí dụ như tại nhiều nơi Giáo hội có thể có nghĩa trang riêng, và tổ chức các nghi thức tại đó tùy tiện. Nhưng các lò hỏa thiêu thì do Nhà nước quản lý, và được điều hành theo luật lao động, nếu chưa dám thêm là theo quy tắc của Sở vệ sinh. Chính vì thế mà sự hiện diện của thân nhân tại những nơi này đã gặp nhiều trở ngại rồi, phương chi là sự có mặt của các giáo sĩ để thi hành lễ nghi tôn giáo. Kế đó, phải xử sự như thế nào đối với tro tàn tung bay theo chiều gió, đổ xuống sông, lưu trữ ở nơi công cộng, hay mang về gia đình? Đó là những thắc mắc mà các Hội đồng Giám mục Âu Mỹ đang nghiên cứu. Phụng vụ dành ngày 2 tháng 11 để kính các linh hồn. Nguồn gốc lễ này bắt đầu từ đâu? Nó có giống với lễ Vu lan trong Phật giáo không? Như chị đã biết, lễ Vu lan được cử hành vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là Tết Trung nguyên. Có lẽ lễ này không bắt nguồn từ Phật giáo, nhưng từ phong tục dân gian. Dù sao, trọng tâm của niềm tin ngày rằm tháng bảy âm lịch là “xá tội vong nhân” vào ngày này, các tội nhân dưới âm phủ được giải thoát. Thân nhân những người mới qua đời tổ chức lễ cầu siêu. Nguồn gốc của lễ các linh hồn bên Công giáo thì khác, với nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Ta có thể lấy một mốc điểm lịch sử là ngày 2 tháng 11 năm 998, để từ đó theo dõi sự tiến triển khi đi ngược hay đi xuôi. Tại sao lấy ngày 2 tháng 11 năm 998 làm mốc điểm? Tại vì theo lịch sử, thánh Ôđilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny dòng Biển đức đã ấn định dành ngày 2 tháng 11 nghĩa là ngày hôm sau lễ kính các thánh để cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, qua việc dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm việc bác ái. Tại sao chọn ngày 2 tháng 11? Như vừa nói, cha Ôđilon chọn ngày 2 tháng 11 bởi vì liền kế ngày 1 tháng 11. Vào ngày này, phụng vụ mừng lễ kính tất cả các thánh, nghĩa là các tín hữu đã lìa đời và đang được hưởng hạnh phúc ở bên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng bên cạnh các phúc nhân, còn có những tín hữu khác đang trải qua cuộc thanh luyện. Vì thế, chúng ta cũng hãy nhớ cầu nguyện cho họ. Đây là một tư tưởng do cha Ôđilon gợi ra phải không? Chúng ta cần phân biệt nhiều khía cạnh việc dành ngày 2 tháng 11 để cầu cho tất cả những người qua đời là sáng kiến của cha Ôđilon. Nhưng việc cầu nguyện cho những người đã qua đời thì đã có từ lâu rồi, mãi từ cuối thời Cựu ước, như chúng ta đọc thấy chứng tích trong sách Macabê, quyển hai, chương 12, khi ông Macabê quyên tiền gửi về đền thờ Giêrusalem để cầu nguyện cho các tử sĩ. Trong Tân ước, ta cũng thấy thánh Phaolô khuyên ông Timôthêô hãy cầu nguyện cho Onêsiphorô, một cộng tác viên với thánh Tông đồ tại Êphêsô 2Tm 1,16-18. Dĩ nhiên, tập tục này được duy trì trong suốt lịch sử của Hội thánh. Còn việc dành một ngày trong năm phụng vụ để cầu cho tất cả các linh hồn thì cũng đã có trước cha Ôđilon từ ba thế kỷ. Tại sao phải cầu nguyện cho những người qua đời? Việc tưởng nhớ những người qua đời được gặp thấy nơi nhiều dân tộc, với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có khi việc tưởng nhớ người quá cố là dịp để thân quyến gặp gỡ nhau, để ôn lại công đức tiền nhân, bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ, đồng thời khuyến khích nâng đỡ nhau trên đường đời. Có nơi thì tin rằng hương hồn của tổ tiên vẫn còn hiện diện với con cháu, vì thế họ được mời đến tham dự những biến cố quan trọng của gia đình, cũng giống như lúc sinh tiền. Có nơi tổ chức cúng giỗ để cung cấp lương thực và đồ dùng cho người quá cố, bởi vì người ta tin rằng những người bên kia thế giới cũng có những nhu cầu và sinh hoạt giống như ở đời này. Có nơi thì tổ chức lễ cầu siêu, xin cho các linh hồn còn bị giam ở địa ngục được giải thoát. Dĩ nhiên, không phải tất cả các quan niệm này đều phù hợp với đức tin Kitô giáo. Thế thì các Kitô hữu cầu nguyện cho các người qua đời để làm gì? Trong việc cầu nguyện cho những người qua đời, có khá nhiều động lực khác nhau. Trước hết, chúng ta không thể nào bỏ qua khía cạnh tâm lý những buổi cầu nguyện bên cạnh quan tài người chết hoặc vào dịp giỗ giáp tháng giáp năm nhằm bày tỏ sự thương tiếc người đã qua đi. Thế nhưng bên cạnh động lực tâm lý, dần dần đức tin Kitô giáo đã mang đến nhiều động lực mới. Ngay từ những lá thư đầu tiên tựa như thứ thứ nhất gửi các tín hữu Têxalônica, chương 4, câu 13, thánh Phaolô đã nhắc nhở các tín hữu đừng buồn rầu như những kẻ thiếu niềm hy vọng. Thực vậy, đối với người tín hữu, cái chết không phải là sự tận diệt của cuộc sống, mà chỉ là ngưỡng cửa bước sang cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, các tín hữu tiên khởi gọi ngày qua đời là “sinh nhật” dies natalis, bởi vì họ được sinh vào cuộc sống mới. Điều này được áp dụng đặc biệt cho những vị tử đạo. Không lạ gì mà vào ngày giáp năm ngày tử đạo, các tín hữu họp nhau lại để đọc hạnh tích của vị tử đạo, không những để khuyến khích nhau bắt chước tấm gương can đảm, nhưng nhất là để tạ ơn Chúa vì đã cho một tín hữu được hoà đồng với Đức Kitô. Nói cách khác, việc mừng các vị tử đạo được liên kết với Thánh lễ, tức là lễ hy sinh của Đức Kitô. Các vị tử đạo là những người đã đi theo sát với Thầy mình trên đường thập giá, cho nên chắc chắn họ cũng được thông dự vào sự phục sinh với Người. Nhưng mà đâu phải tất cả các tín hữu đều tử vì đạo? Đúng rồi. Khi kính nhớ các vị tử đạo, các tín hữu xác tín rằng các ngài đang được hưởng vinh quang với Chúa rồi. Đó là buổi cử hành vui tươi. Thế nhưng không phải tất cả các tín hữu đều chết vì đạo. Nói cách khác, không phải tất cả các tín hữu sau khi qua đời đều nắm chắc sẽ được hưởng vinh quang với Chúa. Vì thế, những người qua đời cần được Hội thánh cầu nguyện để được thanh luyện khỏi tội lỗi, như chúng ta thấy phản ánh nơi đoạn văn trích từ sách Macabê quyển 2 chương 12 đã nhắc đến trên đây. Chúng ta chỉ cần trưng dẫn một chứng tích thì đủ rõ. Trong sách Tuyên xưng Confessiones hay Tự thuật, thánh Augustinô kể lại lời trối trăn của thân mẫu Monica rằng “Các con có thể chôn xác mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con một điều là dù các con ở đâu, thì hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Câu nói này phản ánh một tập tục đã có từ lâu đời, đó là cầu nguyện cho các người qua đời trong khi dâng Thánh lễ. Thánh lễ là nơi mà các tín hữu sống cao độ tín điều về sự “thông hiệp các thánh”. Thực vậy, không những các tín hữu thông hiệp vào Mình và Máu của Chúa Kitô, nhưng còn thông hiệp với Nhiệm thể của Chúa là Hội thánh. Các Kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc đến sự thông hiệp với Đức Maria, các thánh, các phúc nhân, và tất cả những ai đã ly trần. Sự tưởng nhớ này không những chỉ tuyên xưng rằng các người qua đời vẫn còn sống chứ không bị hủy diệt ra tro bụi, nhưng còn cầu xin Chúa nhân lành thương xóa bỏ những thiếu sót của họ. Dĩ nhiên, không phải chỉ chúng ta những người còn sống chuyển cầu cho các người qua đời, nhưng là cả Hội thánh nghĩa là kể cả Đức Kitô, Đức Maria và các phúc nhân đều liên đới chuyển cầu cho các linh hồn. Ngoài việc cử hành Thánh lễ, Hội thánh cũng cầu nguyện cho các người qua đời bằng những kinh nguyện khác, cũng như bằng các công tác bác ái. Lúc nãy, cha nói rằng việc cầu nguyện cho người qua đời đã có từ Cựu ước, còn việc dành một ngày để cầu cho tất cả những người qua đời thì mới chỉ thành hình từ thế kỷ VII. Lai lịch tục lệ này như thế nào? Trên đây, chúng ta nhắc đến lễ Trung nguyên, một ngày mà tục lệ dân gian ở Á đông cầu siêu cho các vong nhân. Ở Rôma thời cổ, cũng có một ngày cầu siêu như vậy, vào ngày 22 tháng hai dương lịch nghĩa là vào ngày cuối năm theo lịch cổ Rôma. Không lạ gì mà nhiều nơi trong Giáo hội công giáo cũng muốn dành ra một ngày để cầu nguyện cho tất cả các người qua đời. Chứng tích cổ nhất là bản luật các đan sĩ của thánh Isiđorô Sevilla bên Tây ban nha +636, truyền dâng Thánh lễ cho tất cả các người qua đời vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vào các thế kỷ sau đó, người ta thấy tại nhiều đan viện tại Đức, Pháp, Ý, chỉ định một ngày trong năm để cầu cho hết các linh hồn, tuy không trùng ngày như nhau. Với cha Ôđilon, thì ngày này được ấn định sau lễ kính các thánh. Nhờ uy tín của các đan viện Cluny, tục lệ này sớm lan tràn khắp châu Âu từ thế kỷ lệ mỗi linh mục dâng ba thánh lễ nhân ngày kính các linh hồn cũng bắt đầu từ thánh Ođilôn, phải không? Không phải, tập tục này ra đời muộn hơn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV với các cha dòng Đaminh ở Valencia Tây ban nha. Đức thánh cha Bênêđictô XIV năm 1748 châu phê tập tục này và nới rộng cho tất cả các linh mục bên Tây ban nha, Bồ đào nha, châu Mỹ la-tinh. Mãi đến năm 1915, đức thánh cha Bênêđictô XV mới nới rộng ra toàn thể Hội thánh. Dù sao, nên biết là Hội thánh không chỉ dành mỗi năm một ngày để tưởng nhớ các người đã qua đời. Nhiều tu viện và giáo xứ vẫn có thói quen cầu nguyện cho các linh hồn mỗi ngày, hay ít là mỗi tuần vào ngày thứ hai. Tại sao dành ngày thứ hai để cầu nguyện cho các linh hồn? Nguồn gốc tục lệ này là một quan điểm hơi kỳ quặc vào thời Trung cổ. Người ta cho rằng các linh hồn ở luyện ngục được xả hơi vào Chúa nhật để mừng Chúa Phục sinh, và qua ngày thứ hai, lại phải tiếp tục lao động. Vì thế, chúng ta nên giúp cho họ một tay. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn vào bất cứ ngày nào mà không cần đếm xỉa đến tập tục đó. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op. daminhvn MẪU 1 DẪN VÀO THÁNH LỄ Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ, Hôm nay toàn thể Hội Thánh cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Điều này cũng nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình ở trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người đem so sánh với thời gian thì thật là mong manh và tạm bợ. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng làm giàu cho cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời, bằng cách thực thi giới răn của Chúa Giêsu là mến Chúa và yêu người. Hiệp dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta nguyện xin Chúa là Cha Giàu Lòng Thương Xót đón nhận linh hồn quý Dì trong Hội dòng, Ông bà, Cha mẹ, những người thân trong gia đình của chúng ta và tất cả những ai đã qua đời được vào thiên quốc, để cùng với các thánh ca ngợi, chiêm ngưỡng dung nhan Ba Ngôi Thiên Chúa và cầu cho mỗi người chúng ta mai sau cũng được đoàn tụ với các ngài trên thiên đàng vinh hiển. Với những tâm tình ấy, kính mời cộng đoàn cùng sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ. DẪN BÀI ĐỌC Bài đọc 1. G 19, Mặc dù ông Gióp bị tai họa giáng xuống, nhưng ông vẫn xác tín vào thiên Chúa và thốt lên “Tôi biết Đấng bênh vực tôi vẫn sống”. Khi đã chết, ông tin sẽ được nhìn ngắm dung nhan vinh hiển của Ngài. Bài đọc 2. Rm 5, 5-11 Thánh Phaolô đã quả quyết với các tín hữu Rôma rằng Chúng ta có Thiên Chúa là niềm tự hào vì chính Đức Kitô đã chết để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Và nhờ Máu của Đức Kitô đã đổ ra để chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa. LỜI NGUYỆN CHUNG Chủ tế Anh Chị em thân mến! Thiên Chúa chúng ta là Đấng Hằng Hữu, Người luôn hiện diện để hướng dẫn chúng ta trên con đường về quê hương vĩnh cửu. Với niềm xác tín đó, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho Đức Thánh cha Phanxicô, các Đức Giám mục, Linh mục, tu sĩ trong Hội thánh luôn hăng say loan báo niềm hy vọng cánh chung, để các ngài loan báo niềm xác tín đó cho muôn dân và giúp họ đón nhận được ơn cứu độ. “Tất cả những kẻ Người ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Hội thánh và tu sĩ nam nữ là những người đã hiến mình phục vụ Chúa mà nay đã qua đời được sớm về đoàn tụ với các thánh trên quê trời. “Bây giờ chúng ta được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, anh chị em, quý ân nhân và đặc biệt là quý Dì trong Hội dòng chúng ta đã ly trần được nhận lãnh niềm hạnh phúc muôn đời trong Nước Chúa. “Tất cả những ai đã thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi Kitô hữu, đặc biệt là mỗi người chúng ta luôn sống tín thác vào lòng thương xót của Chúa và trung thành tin theo Chúa đến cùng. Chủ tế Lạy Cha là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến để giao hòa chúng con với Cha. Xin cho chúng con luôn biết kết hiệp với Đức Giêsu Kitô để chúng con luôn được sống trong bàn tay yêu thương của Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen. MẪU 2 DẪN VÀO THÁNH LỄ Kính thưa cộng đoàn, Hôm nay, toàn thể Hội Thánh tưởng nhớ và cầu nguyện cho các tín hữu về cõi vĩnh hằng trước chúng ta, trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em và những người thân yêu của chúng ta. Đây là dịp để chúng ta xác tín hơn vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ cách đặc biệt và tỏ lòng tri ân đến những thân nhân, ân nhân, bạn hữu xa gần mà nay đã lìa thế. Thánh lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta, những người còn đang lữ hành trên trần thế, biết kết hợp mọi hy sinh của chúng ta với cuộc khổ nạn của Đức Kitô tái diễn trên bàn thờ, để cầu xin cho các linh hồn đã qua đời. Nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của các thánh, thương thanh tẩy những lỗi lầm cho các linh hồn còn đang trong thời gian thanh luyện, để các vị ấy mau được hưởng kiến nhan Chúa, chung hưởng hạnh phúc cùng các Thánh. Và xin cho chúng ta ngày sau cùng được hưởng hạnh phúc với những người được Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Giờ đây, trong tâm tình tưởng nhớ những người thân yêu đã qua đời, cùng với Giáo hội khải hoàn, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh Lễ. DẪN BÀI ĐỌC Bài Đọc 1. G 19, 23-27a Đứng trước những đau khổ, thử thách, ông Gióp vẫn một niềm tín thác vào Thiên Chúa, ông tin rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống và dù da ông bị tiêu huỷ thì với tấm thân ông, ông sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Bài Đọc 2. Rm 5, 5-11 Trong thư gửi tín hữu Roma, Thánh Phaolo khẳng định Vì yêu thương, Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân, thì bây giờ, chúng ta cũng sẽ được cứu độ nhờ Người. LỜI NGUYỆN CHUNG Chủ tế Anh chị em thân mến! Hôm qua, chúng ta cùng hân hoan vui mừng với các thánh đã được ân thưởng thiên đàng. Hôm nay, Hội Thánh kêu mời chúng ta, những người đang lữ hành trên trần thế, tưởng nhớ và cầu nguyện cho những tín hữu đã qua đời. Đây là cách tế mà Hội Thánh sống mầu nhiệm các Thánh thông công. Tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, nhờ lời cầu bầu của các thánh trên trời, chúng ta dâng lời nguyện xin “Tôi tự trời mà xuống, không phải làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh, luôn biết thực thi ý Cha trên trời để mai ngày được sum vầy nơi quê hương thật. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vj chủ chăn trong Gíao Hội, linh mục, tu sỹ, ông bà, cha mẹ, anh chị em, thân bằng quyến thuộc của chúng ta và mọi tín hữu đã qua đời được hân hoan chiêm ngưỡng Chúa muôn đời. “Chúa sẽ xé bỏ chiếc khăn tang bao trùm muôn dân”. Chúng ta cùng cầu xin cho các gia đình đang gặp phải cảnh tang thương, khó khăn thử thách, vẫn một lòng mến Chúa, yêu người, để ngày sau được hưởng phúc muôn đời. “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết cùng chết với Đức Kitô trong những khó khăn và bất ổn của của sống hằng ngày, để được sống lại với con người mới trong Đức Kitô. Chủ tế Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Chúa đã hiến ban Con Một là Đức Giêsu Kitô để cứu độ chúng con. Xin củng cố niềm tin cho chúng con và xin đón nhận mọi anh chị em chúng con đã qua đời vào hàng ngũ các thánh trên trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen. MẪU 3 DẪN VÀO THÁNH LỄ Kính thưa cộng đoàn, Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng hướng về những người đang an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang / để kết hợp hồn xác lại mà hưởng phúc trường sinh vĩnh cửu. Trong những người đã qua đời có những người là thân nhân, ân nhân hay bạn hữu xa gần mà chúng ta quen biết. Việc nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài quả là một bổn phận tốt đẹp, có ý nghĩa, đồng thời là dịp để chúng ta xác tín hơn vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Chúng ta hãy kết hợp mọi hy sinh của chúng ta với cuộc khổ nạn của Đức Kitô tái diễn trên bàn thờ, để cứu giúp các linh hồn đã qua đời, cho họ được hưởng ơn cứu độ Phục Sinh của Người, mà họ đang chờ đợi từng giây, từng phút. Trong niềm tin và hy vọng vào Đức Kitô Tử Nạn – Phục Sinh, mời cộng đoàn đứng cùng hiệp dâng Thánh lễ. . DẪN BÀI ĐỌC Bài đọc I. G 19, Bài đọc sau đây cho thấy dù đau khổ tư bề, ông Gióp vẫn một lòng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa là là Đấng Hằng Sống và hằng bênh vực ông. Bài đọc II. Rm 5, 5-11 Trong đoạn thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta sắp nghe, Thánh Phaolô xác quyết rằng chúng ta được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra. Ngài đã chết để chúng ta được sống và được hòa giải với Thiên Chúa . LỜI NGUYỆN CHUNG Chủ tế Anh chị em thân mến! Trong mầu nhiệm các thánh thông công, Hội Thánh kêu mời chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những tín hữu đã qua đời. Tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, chúng ta dâng lời nguyện xin “Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi đều sẽ đến với Tôi”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho linh hồn các vị Chủ Chăn trong Hội Thánh và Tu sĩ nam nữ/ là những người đã một đời hiến mình phục vụ dân Chúa mà nay đã qua đời/ được sớm hưởng hạnh phúc với Đức Kitô trong Nước Ngài. Chúa chấp nhận các Ngài như của lễ toàn thiêu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em, thân bằng quyến thuộc của chúng ta/ và mọi tín hữu đã qua đời sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai chưa nhận biết Chúa/ nhưng vẫn nỗ lực sống bác ái, chính trực mà nay đã qua đời/ cũng được vào hưởng phần thưởng Nước Trời. Các Kitô hữu còn sống có thể giúp ích cho các linh hồn trong luyện ngục bằng lời cầu nguyện, các việc hy sinh, hãm mình, và nhất là bằng việc dâng Thánh lễ hằng ngày. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người trong chúng ta siêng năng tham dự Thánh lễ, làm các việc lành, và cầu nguyện cho các linh hồn được mau chóng trở về với Thiên Chúa / là cội nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Chủ tế Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Chúa đã hiến ban Con Một là Đức Giêsu Kitô để cứu độ chúng con. Xin rộng thương tha thứ và đón nhận mọi anh chị em chúng con đã qua đời vào hàng ngũ các thánh trên trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. Xin trân trọng gửi đến Quý độc giả các bài đọc Lời Chúa Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn. LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ Bài đọc 1 Kh 7, Tôi thấy Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ. 2 Tôi là Gio-an, tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng gọi bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả. 3 Thiên thần ấy nói “Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta”. 4 Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn một trăm bốn mươi bốn ngàn người thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en. 9 Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 10 Họ lớn tiếng tung hô “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” 11 Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô 12 rằng “A-men ! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời ! A-men !” 13 Một trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi tôi “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy ? Họ từ đâu đến ?” 14 Tôi trả lời “Thưa Ngài, Ngài biết đó.” Vị ấy bảo tôi “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.” Đó là Lời Chúa. Đáp ca Tv 23, Đ. x. Đ. Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. 1 Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. 2 Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông. Đ. Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. 3 Ai được lên núi Chúa ? Ai được ở trong đền thánh của Người ? 4ab Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng. Đ. Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. 5 Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. 6 Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp. Đ. Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài. Bài đọc 2 1 Ga 3,1-3 Thiên Chúa thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ. 1 Anh em thân mến, anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người. 2 Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. 3 Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch. Đó là Lời Chúa. Tung hô Tin Mừng Mt 11,28 Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Ha-lê-lui-a. Tin Mừng Mt 5,1-12a Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thường dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 1 Khi ấy, thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 2 Người lên tiếng dạy họ rằng 3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. 5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. 6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. 7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. 8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. 11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. 12a Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI LỄ I Bài đọc 1 G 19, Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống. Bài trích sách Gióp. 1 Bấy giờ, ông Gióp lên tiếng nói 23 “Ôi, những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại, phải chi có người ghi vào sách, 24 có người đục bằng sắt, trám bằng chì, tạc vào đá cho đến muôn đời ! 25 Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. 26 Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. 27a Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.” Đó là Lời Chúa. Đáp ca Tv 26, và 8b và Đ. Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 1 Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào ? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa ? Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 4 Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng. Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 7 Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. 8b Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, 9a xin Ngài đừng ẩn mặt. Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 13 Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 14 Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào ! Hãy cậy trông vào Chúa. Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Bài đọc 2 Rm 5,5-11 Chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma. 5 Thưa anh em, trông cậy không làm chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi ; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 9 Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. 11 Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa. Đó là Lời Chúa. Tung hô Tin Mừng Ga 6,40 Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói Ý của Cha tôi là tất cả những ai tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Ha-lê-lui-a. Tin Mừng Ga 6,37-40 Ai tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với dân chúng rằng “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Đó là Lời Chúa. LỄ II Bài đọc 1 Is 25, Đức Chúa sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a. 6a Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc 7 Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. 8 Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. 9 Ngày ấy, người ta sẽ nói “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” Đó là Lời Chúa. Đáp ca Tv 24,6 và Đ. Đ. Lạy Chúa, chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ. 6 Lạy Chúa, nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời, giờ đây xin nhớ lại. 7c Xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Đ. Lạy Chúa, chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ. 17 Lòng đau như thắt, xin làm cho thanh thoả, và giải thoát con khỏi bước ngặt nghèo. 18 Xin Chúa thấy cho cảnh lầm than khổ cực và tha thứ hết mọi tội con. Đ. Lạy Chúa, chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ. 20 Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài. 21 Ước gì lòng trong sạch và ngay thẳng che chở giữ gìn con, vì con trông cậy Chúa. Đ. Lạy Chúa, chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ. Bài đọc 2 Rm 8,14-23 Chúng ta trông đợi Thiên Chúa cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma. 14 Thưa anh em, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên “Áp-ba ! Cha ơi !” 16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô ; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người. 18 Thật vậy, tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. 19 Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. 20 Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy ; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy 21 là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. 22 Thật vậy, chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. 23 Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Đó là Lời Chúa. Tung hô Tin Mừng Mt 25,34 Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Ha-lê-lui-a. Tin Mừng Lc 23, Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. 33 Bấy giờ, khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” 40 Nhưng tên kia mắng nó “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” 43 Và Người nói với anh ta “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Đó là Lời Chúa. LỄ III Bài đọc 1 2 Mcb 12,43-45 Ông Giu-đa Ma-ca-bê đã làm một cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý, vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Bài trích sách Ma-ca-bê quyển thứ hai 43 Khi ấy, ông Giu-đa Ma-ca-bê quyên góp được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng hy lễ tạ tội ; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. 44 Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. 45 Nhưng nếu ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do khiến ông xin dâng hy lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi. Đó là Lời Chúa. Đáp ca Tv 41, Đ. Đ. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. 2 Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Đ. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. 3 Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan ? Đ. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. 5bcd Tôi tiến về lều thánh cao sang đến tận nhà Thiên Chúa, cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ, giữa sóng người trẩy hội tưng bừng. Đ. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bài đọc 2 Kh 21, Sẽ không còn sự chết. Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ. 1 Tôi là Gio-an, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” 5a Đấng ngự trên ngai phán “Này đây Ta đổi mới mọi sự. 6b Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền. 7 Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta.” Đó là Lời Chúa. Tung hô Tin Mừng x. Mt 11,25 Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Ha-lê-lui-a. Tin Mừng Ga 11,17-27 Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 17 Khi đến Bê-ta-ni-a, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. 19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây giờ con biết Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói “Em chị sẽ sống lại !” 24 Cô Mác-ta thưa “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su liền phán “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” 27 Cô Mác-ta đáp “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Đó là Lời Chúa. WGPSG - “Xin đừng quên tôi”. Chủ đề chính được Cha phó Barnabê chia sẻ trong Thánh lễ đồng tế cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời được tổ chức tại Đất Thánh giáo xứ Bình Hưng Hòa vào lúc 8g00, thứ Bảy ngày 07/11/ đã có một số phần mộ được thân nhân giải tỏa nhưng cũng gần 150 giáo dân đã tề tựu tại Đất Thánh từ rất sớm, quây quần bên phần mộ của ông bà, cha mẹ, người thân, cùng hiệp ý cầu nguyện cho các tiền nhân được thanh luyện nhanh chóng, sớm về bên lễ cầu cho các linh hồn năm nay diễn ra trong bầu khí thật ấm cúng. Mở đầu Thánh lễ, đại diện HĐMV đã thành kính dâng những nén hương trầm thay cho lời cầu khẩn tha thiết cầu nguyện cho tất cả những người thân yêu đang an nghỉ nơi bài giảng, cha chủ tế đã chia sẻ Hoa Lưu Ly là loài hoa nói về sự chung thủy trong tình yêu đôi lứa, tuy nhiên nó còn mang một ý nghĩa khác với người Công giáo, đó là lời nhắc nhở, kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn nơi luyện ngục “Xin đừng quên tôi”. Khi chúng ta cầu nguyện cho các ngài cũng là cầu nguyện cho chính chúng ta, bởi vì các linh hồn giờ đây là thiêng liêng, trung tín, các ngài không quên ơn tất cả chúng khi kết thúc Thánh lễ, cộng đoàn cùng đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính cầu cho các đẳng linh hồn, trong lúc quý cha rảy nước phép trên các phần lễ kết thúc, mọi người quây quần bên từng ngôi mộ của người thân để tiếp tục cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả làm nên một không khí thật linh thiêng và đầy cảm xúc. Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời. Và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn.

bài đọc lễ cầu cho các linh hồn